Thứ Ba, 1 tháng 5, 2012

Làng nghề Rèn Đa Sỹ - Kiến Hưng - Hà Đông - Hà Nội

Hàng trăm năm nay, làng Ða Sĩ, phường Kiến Hưng, quận Hà Ðông, không chỉ nổi tiếng vì là nơi có nhiều người học giỏi, đỗ cao, mà còn là nơi có nghề rèn truyền thống.

Nay làng Ða Sĩ có hơn 900 hộ dân làm nghề rèn, cung ứng sản phẩm cho thị trường cả nước.


Ðất học, đất nghề

Nằm bên dòng sông Nhuệ, cách trung tâm quận Hà Ðông hơn 1km về phía hạ lưu, có một ngôi làng nổi tiếng của xứ Ðoài văn hiến - làng Ða Sĩ.

Trải hơn một nghìn năm biến đổi, nay Ða Sĩ còn giữ được đầy đủ thiết chế của một làng Việt cổ gồm đình, chùa, đền với đủ các nghi thức của lễ hội văn hóa dân gian.

Theo truyền thuyết của nhân dân trong vùng, đất Ða Sĩ là đất tứ linh, có hình dáng một con rồng ngậm ngọc nên quanh năm mưa thuận gió hòa, dân làng làm ăn thịnh đạt.

Trước thế kỷ XVI, làng có tên gọi Ðan Khê, sau đổi là Ða Sĩ, vì có nhiều người học hành đỗ đạt. Ða Sĩ là quê của một Trạng nguyên, 11 tiến sĩ đã được ghi vào sử sách. Thành hoàng làng Ða Sĩ là danh y Hoàng Ðôn Hòa, dưới thời Lê đã được tôn vinh là "Lương y dược đại vương".

Lâu nay, Ða Sĩ không chỉ nổi tiếng vì làng có nhiều người học giỏi đỗ cao, mà còn là nơi có nghề rèn nổi tiếng. Tương truyền, nghề rèn Ða Sĩ có từ đời Hùng Vương thứ 18, là nơi cung cấp vũ khí cho các lạc hầu, lạc tướng giữ yên bờ cõi và sản xuất nông cụ phục vụ sản xuất, lao động.

Nhưng làng Ða Sĩ chính thức có được nghề rèn độc đáo như ngày nay là nhờ có hai vị tổ nghề là cụ Nguyễn Thuật và cụ Nguyễn Thuấn, khi đóng quân trên đất làng Sẽ xưa đã truyền những "bí quyết" nghề rèn cho người dân. Trải qua những biến thiên của lịch sử, nghề rèn ở Ða Sĩ vẫn tồn tại và ngày càng phát triển.

Theo Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề rèn Ða Sĩ Ðinh Công Ðoán, thời kỳ trước và sau Cách mạng Tháng Tám, làng là nơi sản xuất nhiều giáo mác, dao kéo, quân dụng... phục vụ kháng chiến.

Từ năm 1960, làng thành lập hai hợp tác xã rèn là hợp tác xã Tiền Phong và hợp tác xã Ða Tiến. Chuyển sang cơ chế thị trường, do thiếu nguồn tiêu thụ và nguyên liệu, hợp tác xã bị giải thể. Các hộ dân tự tìm cách khôi phục nghề dưới hình thức sản xuất cá thể quy mô nhỏ ở từng gia đình.

Trước năm 1996, cả làng có hơn 300 lò rèn, làm ra hơn hai triệu sản phẩm một năm. Ðến năm 2000, trong thôn có 500 lò rèn, sản xuất hơn sáu triệu sản phẩm/năm. Cho đến nay, làng có khoảng 900 hộ làm nghề rèn truyền thống, 200 hộ cung ứng than sắt, gỗ và thu mua sản phẩm, chiếm 90% số hộ dân trong làng.

Sản phẩm rèn Ða Sĩ phong phú về chủng loại, kiểu dáng, kích thước. Ngoài những sản phẩm thông dụng, truyền thống, thợ rèn Ða Sĩ còn tìm cách sản xuất các loại hàng chuyên dùng phục vụ công tác khảo cổ, ngành may, chế biến thực phẩm...

Mỗi tháng, có hàng trăm tấn sản phẩm rèn Ða Sĩ được mang đi tiêu thụ tại thị trường trong nước và xuất khẩu sang thị trường Lào, Campuchia...

Ở Ða Sĩ, người đàn ông chủ gia đình là trưởng lò rèn, những thành viên khác trong gia đình đều tham gia công việc, tùy theo sức lực và lứa tuổi. Nam giới thường đảm nhiệm việc nặng như quai búa, chặt sắt, còn phụ nữ thì lo thu mua nguyên vật liệu, bán sản phẩm và làm một số việc nhẹ nhàng hơn.

Ngày nay, nghề rèn đã đỡ vất vả hơn, năng suất cao gấp đôi do các hộ gia đình đã tự đầu tư thêm máy cắt sắt, máy cắt hơi, hàn điện, búa máy.

Người thợ chỉ trực tiếp làm các công đoạn như tạo phôi, tạo hình, tạo dáng. Khó nhất là khâu tôi thép. Người tôi thép phải nhìn được nước thép và ước lượng được độ già non trong khi tôi. Ðây chính là bí quyết quyết định chất lượng sản phẩm.

Sản phẩm ở cơ sở sản xuất của nghệ nhân Ðinh Công Ðoán cũng chỉ dùng nguyên liệu là các loại sắt phế liệu, nhưng nhờ bí quyết riêng mà gia đình ông sản xuất nhiều mặt hàng dao, kéo cao cấp phục vụ các nhà hàng và cơ sở làm giày da, may công nghiệp, với chất lượng, giá cả ngang các loại hàng nhập khẩu.

Ông Ðoán cho biết các sản phẩm do xưởng nhà ông sản xuất đều được đặt hàng từ trước, nhưng cũng chỉ đáp ứng được 40% nhu cầu của thị trường.

Nghề rèn ở Ða Sĩ phát triển không chỉ giải quyết việc làm cho lao động địa phương, giúp các hộ dân thoát nghèo, vươn lên làm giàu mà còn giải quyết nhiều lao động thời vụ của các địa phương khác.

Trước đây, người Ða Sĩ rất hạn chế thuê các lao động bên ngoài để giữ bí quyết nghề truyền thống, nhưng nay do nhu cầu mở rộng sản xuất, để đáp ứng các đơn hàng lớn, các xưởng sản xuất trong làng còn thu hút khoảng hơn 200 lao động từ các địa phương, thu nhập bình quân 50.000 đồng/ngày.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét